“Khâu trình, thẩm định, chấp thuận chủ trương đầu tư là một thủ tục rườm rà, gây phiền nhiễu”. OK, đó là hiện tượng. Vậy bản chất thật sự là gì, điều gì ẩn chứa phía sau “sự phiền nhiễu” ấy. Tôi đã có những bài viết về vấn đề này (gắn link tại cuối bài). Trong bài viết tiếp theo (và có lẽ là cuối cùng về đề tài này), tôi sẽ cố gắng làm rõ thêm với hi vọng nó cung cấp thêm một góc nhìn cho một số chuyên gia, đại biểu Quốc hội, nhà báo… phục vụ cho buổi thảo luận hội trường sắp tới về sửa đổi các luật, trong đó có sửa Luật Đầu tư (hiện có một số ý kiến đề nghị bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư).
I. Ý nghĩa của thủ tục chủ trương đầu tư
1. Nếu nhìn từ bên ngoài vào mà không làm thực tiễn, không “chui vào chăn” thì sẽ thấy thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư hiện đang bị kéo dài nên trở thành một rào cản với doanh nghiệp.

2. Nhưng nếu xắn tay vào thì sẽ thấy bản chất việc thẩm định chủ trương đầu tư kéo dài là do các tồn tại sẵn có từ các bước trước (ví dụ các quy hoạch mâu thuẫn nhau…) Nôm na, chủ trương đầu tư là cái máy xử lý đống “nguyên liệu” là các dữ liệu nhập vào. Do “nguyên liệu” tạp, chất lượng kém nên thời gian pha trộn, chế biến bị kéo dài.
3. Chủ trương đầu tư chỉ là bước rà soát, đánh giá những thứ đã sẵn có (các quy hoạch, chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở đã được phê duyệt…). Như vậy nếu bỏ qua bước chủ trương đầu tư thì BẢN CHẤT DỰ ÁN VẪN CÓ TỒN TẠI VỀ PHÁP LÝ (ví dụ: chưa phù hợp về quy hoạch, có thể đúng 9/10 quy hoạch nhưng vẫn còn 1/10 quy hoạch không phù hợp) =>Dự án vẫn tắc về sau, khi cơ quan quản lý phát hiện ra điểm tắc nghẽn sẽ yêu cầu phanh lại để “xin ý kiến” xử lý. Như vậy, việc bỏ thủ tục chủ trương đầu tư không có giá trị tháo gỡ, ngược lại, thà bỏ ra 2-3 tuần để rà soát còn có ích hơn, xanh – chín, sòng phẳng 1 lần, cả Nhà nước và nhà đầu tư đều có lợi.
Để làm rõ, hiện nay khâu thẩm định, chấp thuận chủ trương đầu tư kéo dài là do khâu lấy ý kiến, ví dụ các Sở ngành thẩm định thấy các quy hoạch có mâu thuẫn nên mất thời gian gửi công văn qua lại lấy ý kiến. Nếu sửa luật để bỏ thủ tục chủ trương đầu tư thì trước mắt có thể OK coi như bỏ qua bước “khám sức khỏe”), nhưng bản chất “mầm bệnh” vẫn trong cơ thể, đến một thời điểm nào đó sẽ bùng phát thành bệnh (mà khi đó “khối u” đến giai đoạn cuối, di căn, không có khả năng chữa trị).
Ghi chú: Đa số các luật chuyên ngành đều có công cụ quy hoạch để quản lý ngành mình. Về nguyên tắc, “đúng” là phải đúng hết, còn sai thì chỉ cần 01 quy hoạch không phù hợp là dự án sẽ “đứng im”. Ví dụ, nếu dự án phù hợp với quy hoạch đô thị tỷ lệ 1/2000 nhưng còn quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch lâm nghiệp, quy hoạch thủy lợi, quy hoạch giao thông đường bộ, quy hoạch đê điều…, rồi chương trình, kế hoạch phát triển nhà ở…. Nhỡ có 1 “quy hoạch” nào trong đó không phù hợp để triển khai dự án thì sao? Rồi còn đánh giá về quốc phòng, an ninh (các tài liệu mật), nếu không có công an, quân đội thẩm định, đến bước giao đất thì bị dừng vì liên quan đất quốc phòng, an ninh thì ai chịu trách nhiệm? Ai bảo vệ nhà đầu tư (đã bỏ bao nhiêu tiền của, công sức, thời gian… cho dự án)?
Nếu hô hào sửa luật, bãi bỏ thủ tục chủ trương đầu tư (coi như bỏ qua bước “khám sức khỏe định kỳ”), vậy sau này triển khai mà dự án bị đình trệ, hình thành một loạt các quy hoạch treo, dự án treo thì ai sẽ chịu trách nhiệm?
Do đó, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư vẫn cần thiết để “xanh – chín” từ đầu, dự án phù hợp với các công cụ quy hoạch, được đánh giá là hiệu quả, khả thi thì OK, triển khai. Ngược lại, dự án không phù hợp để triển khai thì dừng luôn, tránh mất thời gian, tiền bạc của cả Nhà nước và đặc biệt là nhà đầu tư.
4. “Chết” vì cái tên
Vậy tại sao thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư nhận được thái độ không mấy thân thiện của nhà đầu tư. Theo tôi, vấn đề nằm ở cái tên của thủ tục này: “CHẤP THUẬN – CHỦ TRƯƠNG đầu tư”, nghe sặc mùi hành chính, xin – cho. Nếu chỉ nhìn từ cái tên thủ tục thì doanh nghiệp nào cũng muốn bỏ quách cho xong. Nhưng bản chất nó lành mạnh hơn thế nhiều.
Tuy nhiên, tôi hoàn toàn đồng ý với các đề xuất về việc: (i) Thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư phải phân cấp mạnh mẽ cho địa phương (cái này dự thảo sửa Luật Đầu tư đã tiếp thu); (ii) Cần sàng lọc về loại hình dự án, xem dự án nào thật sự cần thiết phải chấp thuận chủ trương đầu tư, dự án nào không cần thì bỏ khỏi các Điều 30, 31, 32 Luật Đầu tư để không cần phải được cơ quan nhà nước chấp thuận.
Qua trao đổi, thảo luận thì tôi thấy có một ý mà anh Lương Hoài Nam nói rất hợp lý là về dự án hãng hàng không (thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ theo Điều 31.1.c Luật Đầu tư). Tôi tán thành với việc cần bãi bỏ vì đã có thủ tục đầu tư theo pháp luật về hàng không dân dụng rồi, không cần Luật Đầu tư phải chấp thuận chủ trương đầu tư một lần nữa.
Các dự án nhỏ lẻ mà không phải dự án bất động sản, không có tính chất kinh doanh bất động sản (ví dụ dự án sản xuất mà doanh nghiệp, người dân dùng đất có sẵn, hoặc thuê địa điểm, không cần cơ quan nhà nước giao/cho thuê đất, không có nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất…) thì không cần chấp thuận chủ trương đầu tư.
Ngược lại, với dự án mà Nhà đầu tư có yêu cầu Nhà nước thu hồi đất để giao đất/cho thuê đất (nhà đầu tư không thể “tự lo” địa điểm) thì buộc phải có chấp thuận chủ trương đầu tư. Vì nếu không có, Nhà nước sẽ căn cứ vào đâu để thu hồi của dân để giao cho doanh nghiệp? Quyền sử dụng đất của người dân là quyền hiến định được pháp luật bảo vệ mà? Vậy người dân phải biết Nhà nước thu hồi đất của mình nhằm mục đích gì, để làm dự án như thế nào chứ? => Phải có chấp thuận chủ trương đầu tư để Nhà nước có cái mà trình bày/giải trình với dân khi ban hành thông báo/quyết định thu hồi đất.
5. Một ý kiến được nêu ra: “Nếu quy hoạch được làm đủ kỹ và quy trình chặt chẽ thì về nguyên tắc các quy hoạch phải phù hợp với nhau, dưới với trên, chung với chuyên ngành… Như vậy Nhà nước có thể căn cứ trực tiếp vào việc triển khai quy hoạch để: (1) Thu hồi đất (trường hợp dự án thuộc diện Nhà nước thu hồi đất); (2) Tổ chức đấu giá/đấu thầu và lấy QĐ phê duyệt kết quả đấu giá/đấu thầu làm căn cứ giao/cho thuê đất cho nhà đầu tư, hoặc (3) “Xác nhận” dự án mà nhà đầu tư đề xuất phù hợp với quy hoạch (trường hợp nhà đầu tư đang có đất).”
Tuy nhiên: Đây là mong muốn của cả xã hội nhưng theo tôi là không tưởng vì quy hoạch do nhiều cơ quan quản lý làm, theo các mục đích quản lý khác nhau, nên sự mâu thuẫn của các quy hoạch là 1 thực tại khách quan phải chấp nhận (như là ta phải chấp nhận hệ thống pháp luật luôn có mâu thuẫn, chồng chéo). Hơn nữa, các quy hoạch về nguyên tắc luôn có KỲ QUY HOẠCH. Ví dụ kỳ 1 đồ án quy hoạch là 20 năm thì ta sẽ thực hiện quy hoạch khi nào, khi nào cho dự án triển khai? Nội dung này phải trả lời ở khâu chấp thuận chủ trương đầu tư. Thực tế số dự án trên quy hoạch luôn nhiều hơn (gấp n lần) số dự án được chấp thuận chủ trương đầu tư, vì quy hoạch là thể hiện khả năng dự báo, tầm nhìn từ sớm, từ xa, còn chủ trương đầu tư là giải quyết cho 1 thời điểm cụ thể.
II. Không bỏ thủ tục chủ trương đầu tư thì bỏ cái gì
Như đã nêu trên, thủ tục chủ trương đầu tư là cần thiết, không thể bỏ, đặc biệt với các dự án bất động sản, dự án có sử dụng đất (nhất là các dự án với quy mô lớn). Vậy để đơn giản hóa thủ tục đầu tư thì cần bỏ thủ tục nào?
Theo tôi, cần bãi bỏ các thủ tục thuần túy mang tính chất kỹ thuật, gồm: thẩm định thiết kế/Báo cáo nghiên cứu khả thi; thẩm duyệt thiết kế PCCC; thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM); cấp GPXD… của cơ quan quản lý nhà nước, để chủ đầu tư tự thực hiện; hoặc thay đổi theo hướng xã hội hóa.
Lý do, các thủ tục này thuần túy kỹ thuật. Mà những công việc có thể cho AI, máy móc, phần mềm chạy được thì cứ để chủ đầu tư tự làm hoặc xã hội hóa (sử dụng dịch vụ thẩm tra của các đơn vị có đủ năng lực thay vì trình cơ quan nhà nước thẩm định, giải quyết). Như vậy, Nhà nước có thể điều chỉnh theo hướng tương tự “đăng kiểm” phương tiện giao thông hiện nay (nhưng phải quản lý tốt hơn, không để xảy ra tình trạng như các trung tâm đăng kiểm thời gian qua).
Vài ý như trên và cũng là bài post cuối cùng của tôi về chủ đề này, hi vọng nó cung cấp được một số thông tin, dữ kiện hữu ích cho những người cần khai thác, sử dụng.
Ngày 21/5/2025 – Luật sư Nguyễn Văn Đỉnh
Các bài liên quan: