Hiện nay, để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên, một số địa phương có sáng kiến tổ chức phân luồng, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ, giải quyết thủ tục cho những công việc, dự án quan trọng.
Theo đó, các địa phương này đặt thêm một luồng ưu tiên trên hệ thống xử lý văn bản, gọi là “cơ chế luồng xanh”, tương tự thuật ngữ “luồng xanh” (green lane) trong hải quan để chỉ nhóm hàng hóa được ưu tiên thông quan nhanh chóng mà không cần dừng để kiểm tra.
Bài trên mục CÀ PHÊ CUỐI TUẦN, Tạp chí Nhà Đầu tư: [Cafe Cuối tuần] ‘Luồng xanh’ và BRT
Vừa qua, báo chí dẫn lời lãnh đạo một tỉnh miền Bắc về triển khai xử lý các công việc quan trọng, cấp bách theo cơ chế luồng xanh. Theo đó, địa phương này triển khai “luồng xanh” đồng bộ tại cả các cơ quan Đảng (gồm Thường trực tỉnh ủy, Ban thường vụ tỉnh ủy) và chính quyền. Mỗi tháng, UBND tỉnh đề xuất khoảng 20 dự án (gồm cả dự án đầu tư công và dự án đầu tư kinh doanh) cần phải xử lý theo cơ chế đặc biệt trong 24 giờ và chỉ cần báo cáo, xin chủ trương của Thường trực, Thường vụ tỉnh ủy một lần.

Thường trực, Thường vụ tỉnh ủy sẽ cho ý kiến để UBND tỉnh thực hiện các thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, lựa chọn chủ đầu tư và các công việc tiếp theo, sau khi thực hiện xong mới báo cáo cơ quan Đảng. Với dự án áp dụng cơ chế “luồng xanh” thì khi một cơ quan trình hồ sơ, các sở, ngành, địa phương phải có ý kiến ở trong vòng 24 giờ.
Phương án này được nhiều địa phương kỳ vọng sẽ rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục cho các dự án quan trọng. Nhưng một vấn đề được đặt ra là liệu có nên đặt ra một cơ chế đặc thù có tên là “luồng xanh” để chỉ một số dự án đặc biệt được đi vào “luồng” ưu tiên, thay vì áp dụng đại trà?
Việc cải cách thủ tục hành chính theo hướng một dự án sẽ được giảm thiểu thủ tục, chỉ xin ý kiến về chủ trương có một lần, sau đó được thực hiện tất cả các thủ tục tiếp sau là một hướng đi đúng đắn, giúp phát huy hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước. Vấn đề là tại sao tư duy này không nhân rộng cho tất cả các dự án mà lại chỉ một số dự án trong danh mục được áp dụng “luồng xanh”?
Cần làm rõ rằng những dự án áp dụng “cơ chế luồng xanh” phải là dự án có quy mô lớn, có tác động quan trọng đến sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Những dự án này được rút gọn thủ tục, chỉ xem xét chủ trương có một lần. Vậy tại sao những dự án “không luồng xanh”, tức là những dự án “thường”, có quy mô nhỏ, mức độ quan trọng thấp hơn, lại cần được “quan tâm” nhiều lần theo tập quán làm việc thông thường (dự án kém quan trọng nhưng phải trải qua nhiều vòng xem xét hơn so với những dự án lớn, quan trọng)!? Như vậy, các cán bộ, lãnh đạo địa phương sẽ phải dành nhiều thời gian hơn để cho ý kiến đối với những dự án thông thường so với những dự án trọng điểm?
Hơn nữa, việc một số dự án được hưởng cơ chế riêng sẽ tạo ra đặc quyền, đặc lợi và tiềm ẩn nguy cơ tạo ra cơ chế “xin” để dự án được đưa vào “luồng xanh”.
Có thể thấy rằng “cơ chế luồng xanh” có một số điểm tương đồng với hệ thống xe buýt nhanh (BRT) tại Hà Nội. Sau khi Hà Nội đầu tư tuyến BRT Kim Mã – Yên Nghĩa, người dân lưu thông trên trục Lê Văn Lương – Tố Hữu phải chen chúc trên nửa con đường, nhường nửa còn lại cho loại phương tiện phải hơn 10 phút mới có một chuyến. Nó tạo ra bức tranh tương phản gây bức xúc trong xã hội: những chiếc xe bus màu xanh đắt tiền thong thả chạy trên làn đường độc quyền, còn bên cạnh là những dòng ô tô, xe máy chen chúc nhích từng chút một.
Một chi tiết gây bức xúc nữa là sau khi BRT đi vào hoạt, các phương tiện công cộng khác như taxi và xe hợp đồng đều bị cấm lưu thông trên tuyến đường này trong giờ cao điểm. Như vậy, cả xã hội đều phải hi sinh quyền lợi của mình để xe buýt nhanh BRT được chạy. Sau gần 10 năm triển khai, xe buýt nhanh BRT với những cơ chế đặc thù riêng biệt đã không đáp ứng được kỳ vọng đặt ra từ đầu, nếu không nói là thất bại.
Nhìn từ “luồng xanh” trong hải quan thì cơ chế này được áp dụng cho hàng hóa của các doanh nghiệp có lịch sử chấp hành tốt các quy định của pháp luật về hải quan, không có lịch sử vi phạm. Như vậy hàng hóa được coi là có mức độ rủi ro thấp mới được ưu tiên giảm thiểu thủ tục kiểm tra, từ đó sẽ được thông quan nhanh chóng, giúp giảm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.
Một cách tổng quát, “luồng xanh” trong hải quan gắn với lý lịch, mức độ uy tín của doanh nghiệp. Điều đó tạo động lực cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu làm ăn chân chính, chuyên nghiệp, tuân thủ đúng quy định và hạn chế các vi phạm để được cấp “luồng xanh”.
Ngược lại, phương án cấp “luồng xanh” cho các dự án tại một số địa phương hiện nay không sử dụng tiêu chí uy tín của doanh nghiệp mà đơn thuần dựa vào quy mô, mức độ quan trọng của dự án. Điều đó hoàn toàn có thể dẫn đến nhận định chủ quan của cán bộ, công chức có thẩm quyền khi xác định dự án nào cần nới lỏng thủ tục pháp lý và gây tác dụng ngược khi triển khai thực hiện. Ngoài ra, như đã nêu ở phần đầu bài viết, việc áp dụng “luồng xanh” khi thiếu bộ tiêu chí nhất quán hoàn toàn có thể tạo ra cơ chế “xin – cho”, làm phát sinh nhũng nhiễu, tiêu cực.
Luật sư Nguyễn Văn Đỉnh